Chủ Nhật, 7 tháng 8, 2011

Gửi em, "kẻ trộm" chồng chị!

Chị biết em yêu chồng chị nhưng chẳng lẽ chị bỏ chồng chị chỉ vì em yêu chồng chị sao?
Xét cho cùng, chị rất hài lòng với thư em. Dù sao thì em cũng đã... điên lên mà bộc lộ bản chất “trời đánh tám búa” của mình (chồng chị mà biết cái này chắc ông ấy ấn tượng lắm!).

Nhưng, trong cái hài lòng cũng có chút buồn: Tủi phận đàn bà chung thôi em ạ. Chị có thể hình dung em ghê gớm, em đanh đá, em bất chấp tất cả nhất định giằng lấy chồng chị cho bằng được, chỉ có điều chị không bao giờ tưởng tượng được một cô gái trẻ, có nghề nghiệp, chắc với đời thì vẫn còn mới toanh, hoàn toàn không phải là đồ second hand, vậy mà tự nhận mình là kẻ “khố rách áo ôm”, là kẻ “ngây ngô, thậm chí đần độn”.

Ôi em ơi, sao lại tự hạ giá mình như thế? Chẳng lẽ chỉ vì một lão đàn ông (không đáng gì mấy) mà em sẵn sàng bộc lộ cái bản chất “khố rách áo ôm” của em trước thiên hạ thế sao?




Các cụ bảo đàn bà khó dạy, thật đúng! Em nóng lòng dọn vào ngôi nhà ấy lắm sao? Em càng nóng bao nhiêu, chị sẽ càng lạnh bấy nhiêu. Đã bảo đến nhà chơi thì xin mời, còn gói nhà lại tính đem đi luôn thì không được.

Luật pháp đứng về phía chị, gia đình nội ngoại đứng về phía chị, con cái đứng về phía chị, em cứ chiến đấu với chừng ấy thứ đi đã, rồi thì thắng bại tính sau. Đàn ông có thể không thích sống trong nhà, nhưng các ông ấy cũng biết “sẩy nhà ra thất nghiệp”, cũng biết rời nhà ra là “tứ cố vô thân”, nên các ông ấy cứ ra ngoài than thở với các em thế thôi, chứ dễ gì bỏ nhà để trở thành kẻ vô gia cư, nhất là khi vô gia cư lại được cộng với một nàng “khố rách áo ôm” nữa!

Chị cảm ơn em đã cho chị biết chị thiếu gì. Chị đã chăm sóc mình cho hấp dẫn hơn, tự “lạ hóa” mình cho mới mẻ hơn, chị đã củng cố lại giềng mối gia đình cho chặt chẽ, chị cũng chiều ông ấy hơn. Chị rút kinh nghiệm từ các em về cách tôn sùng ông ấy, dịu dàng nhỏ nhẹ và lắng nghe ông ấy.

Điều này có khó gì đâu. Chị ra ngoài đường, gặp ông xe ôm cũng còn ngọt ngào được mấy câu để trả giá, gặp đồng nghiệp còn cười đùa thăm hỏi chân tình, khó gì việc ấy với chồng con. Chỉ là ngày trước chưa quan tâm, bây giờ bù lại gấp nhiều lần thế thôi. Đàn bà mà, cũng giống như em thôi, hễ có mục tiêu rõ ràng là làm được hết. Đàn bà đã muốn là trời muốn, phải không em?

Em thử nghĩ xem, em chỉ có mỗi một tình yêu thôi (ôi! Cái thứ phù du hư ảo ấy!) mà đã lồng lộn lên đòi chiếm, đòi ở, đòi chia sẻ, đòi chịu đựng, đòi dời đổi đủ thứ, chị - người vợ - có nhiều thứ hơn em nhiều, chị phải ra sức mà giữ chứ. Em nóng lòng một, chị sẽ giữ chặt đến mười.

Người vợ từ xa xưa đã được di truyền cái khả năng giữ chồng đấy rồi, em có nhớ không, nó tàn nhẫn lắm đấy: “Bậu ra cho khỏi tay choa/ Cái xương bậu nát cái da bậu mòn!”. Những người vợ hiện đại hôm nay mạnh mẽ hơn nhiều em ạ. Chị đã bảo chả còn gì nhiều nhặn ở đấy đâu, và rất có thể, đến khi em giằng được ông ấy ra khỏi gia đình chị, ông ấy cũng đã cạn kiệt, rách tướp. Ôi kho báu của kẻ ăn mày! Chẳng lẽ suốt đời em cam cảnh khố rách áo ôm?

Làm người thứ ba chẳng phải là chọn lựa khôn ngoan gì cho lắm. Đừng nhân danh tình yêu mà phá vỡ hạnh phúc của những gia đình khác. Hãy dừng lại đi em.

Chưa lập gia đình mà đã phải lồng lộn lên vì giành giật hơn thua, chưa chạm tay vào hạnh phúc mà đã “khố rách áo ôm”, chưa long lanh ngày nào đã phải tự nhận mình “xấu xí nhưng… mới lạ”, hỏi em sẽ mới lạ được bao nhiêu ngày? Chị mong em suy xét trước sau bình tĩnh, bởi vì các bà vợ cũng đang hết sức cố gắng giữ bình tĩnh, không phải chỉ để giữ chồng, mà còn để giữ vững gia đình của họ.

Chị biết em yêu chồng chị nhưng chẳng lẽ chị bỏ chồng chị chỉ vì em yêu chồng chị sao? Chị biết, chắc cũng có nhiều cô gái có tình ý với chồng chị, nhưng họ đều làm chủ được bản thân mà dừng lại trong giới hạn. Suy cho cùng, sở hữu một căn nhà không ma nào thèm nhìn ngó đến, có một người chồng chả hấp dẫn ai thì có gì thú vị đâu.

Ở vào địa vị của chị, em sẽ hiểu, sở hữu một căn nhà mà nhiều kẻ thèm nhỏ dãi mới thích chứ, sống với một người chồng có sức hút mới thú vị chứ! Trong đời làm vợ, người đàn bà nào chả có lần phải đương đầu với những kẻ đến sau, những kẻ chỉ lăm le vào nhà người ta mà trộm cắp hạnh phúc. Bản năng gìn giữ gia đình đã trở thành máu thịt, xã hội càng hiện đại, những kẻ trộm càng tân tiến, các bà vợ cũng càng khôn khéo hơn đấy em ạ. Chẳng là vì các bà vợ cũng trưởng thành từ các cô gái trẻ được giáo dục và ngày càng được trang bị nhiều hơn các kỹ năng gìn giữ hạnh phúc của gia đình mình ấy mà. 

Cuối thư, chị gửi em một “thông điệp màu hồng”: Nếu đã “lỡ yêu”, đừng “hái đau thương” vì tình yêu đó. Cuộc sống luôn dành cho em sự lựa chọn, xin em đừng chọn mình là kẻ “khố rách áo ôm”, là kẻ “ngây ngô đần độn”, hãy vì chút kiêu hãnh đàn bà của tất cả chúng ta, để sống trong bình an và hạnh phúc.

Theo Phụ Nữ TPHCM
nguồn http://www.docbao.vn/News.aspx?cid=14&id=108918&d=04082011

Thứ Bảy, 6 tháng 8, 2011

Ý NGHĨA NGÀY NAY CỦA HỌC THUYẾT VỀ GIÁ TRỊ THẶNG DƯ CỦA C. MÁC GS.TS. BÙI NGỌC CHƯỞNG – Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Ý NGHĨA NGÀY NAY CỦA HỌC THUYẾT VỀ GIÁ TRỊ THẶNG DƯ CỦA C. MÁC

GS.TS. BÙI NGỌC CHƯỞNG – Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
1 – Cơ chế bóc lột tư bản chủ nghĩa
C. Mác đã vạch ra rằng, tư bản không hề phát minh ra lao động thặng dư, rằng: "Nơi nào mà một bộ phận xã hội chiếm độc quyền về những tư liệu sản xuất thì nơi đó người lao động, tự do hay không tự do, đều buộc phải thêm vào thời gian lao động cần thiết để nuôi sống bản thân mình một số thời gian lao động dôi ra dùng để sản xuất những tư liệu sinh hoạt cho người chiếm hữu tư liệu sản xuất" (1). Quy luật kẻ chiếm hữu tư liệu sản xuất bóc lột người lao động không có tư liệu sản xuất, được thực hiện dưới những hình thức và cơ chế khác nhau trong những hình thái xã hội khác nhau.
Trong xã hội chiếm hữu nô lệ, giai cấp nô lệ bị lệ thuộc hoàn toàn về thân thể vào giai cấp chủ nô, thì ngoài việc bị bóc lột lao động thặng dư, nô lệ còn bị chiếm một phần lớn sản phẩm cần thiết của giai cấp nô lệ. Trong chế độ phong kiến, giai cấp nông nô đã có một phần tự do về thân thể đối với giai cấp địa chủ và chế độ bóc lột lao động thặng dư biểu hiện dưới hình thức bóc lột địa tô, lao động thặng dư và lao động cần thiết được phân chia rõ ràng. Bởi vậy, theo C. Mác cơ chế bóc lột thời phong kiến có nhiều tiến bộ hơn chiếm hữu nô lệ.
Giai cấp tư sản bước lên vũ đài lịch sử cũng là giai cấp độc chiếm tư nhân những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội. Khác với cơ chế bóc lột trong hai hình thái kinh tế – xã hội trước chủ yếu dựa trên quan hệ hiện vật, cơ chế bóc lột tư bản chủ nghĩa dựa trên quan hệ giá trị; nói cách khác là quan hệ trao đổi những vật ngang giá (tức là tuân theo quy luật giá trị). Quan hệ này che dấu sự bóc lột trong một cơ chế trao đổi với vẻ bề ngoài như là tự do và bình đẳng, chính vì vậy mà các nhà kinh tế học trước C. Mác đã không thành công trong việc lý giải bản chất bóc lột tư bản chủ nghĩa.
A. Smith và D. Ri-các-đô đã quan niệm một cách hời hợt, bề ngoài rằng, mua bán giữa tư bản và công nhân hình như là mua bán lao động nên cả hai ông đều gặp bế tắc trong việc lý giải một cách khoa học bản chất và nguồn gốc của lợi nhuận. Chẳng hạn, nếu lao động là hàng hóa thì nó phải được kết tinh vào vật, như vậy là công nhân bán hàng hóa chứ không bán lao động; lao động được xác định là thước đo của mọi giá trị thì không thể tự lấy nó để đo lường giá trị của bản thân nó. Mặt khác, nếu mua bán lao động mà trao đổi ngang giá thì không còn cơ sở tồn tại của lợi nhuận, nhưng thực tế lợi nhuận tồn tại một cách khách quan. Vậy, theo các cách giải thích đó, quy luật giá trị mâu thuẫn với quy luật sản xuất ra lợi nhuận và ngược lại.
C. Mác đã phát hiện rằng, quan hệ mua bán giữa công nhân và tư bản không phải là mua bán hàng hóa lao động mà là mua bán một loại hàng hóa đặc biệt – hàng hóa sức lao động. Hàng hóa này có giá trị và giá trị sử dụng khác với các hàng hóa thông thường. Giá trị của hàng hóa sức lao động là giá trị những tư liệu sinh hoạt tối thiểu cần thiết để tái sản xuất sức lao động của công nhân và bao hàm những yếu tố tinh thần, lịch sử và dân tộc… – Giá trị sử dụng của hàng hóa này (tức là tiêu dùng nó trong quá trình sản xuất) có khả năng tạo ra một lượng giá trị lớn hơn giá trị của chính nó là sức lao động. Do đó dù nhà tư bản trả đủ giá trị sức lao động cho công nhân trên cơ sở trao đổi ngang giá thì vẫn thu được phần giá trị dôi ra, biến thành lợi nhuận. Như vậy, quy luật giá trị và quy luật sản xuất ra lợi nhuận không phủ định lẫn nhau mà song song tồn tại: trao đổi giữa tư bản và công nhân tuân theo quy luật ngang giá (quy luật giá trị sức lao động) nhưng nhà tư bản vẫn thu được phần dôi ra ngoài giá trị sức lao động; phần dôi ra đó được C. Mác gọi là giá trị thặng dư. Như vậy, bóc lột lao động thặng dư biểu hiện thành bóc lột giá trị thặng dư là quy luậtbóc lột đặc thù của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và là quy luật tuyệt đối của phương thức sản xuất đó.

Tỷ số giữa giá trị thặng dư và tư bản khả biến hay tỷ số giữa lao động thặng dư và lao động cần thiết là tỷ suất giá trị thặng dư; tỷ suất đó nói lên mức độ bóc lột giai cấp công nhân. Giá trị thặng dư có biểu hiện bề ngoài là một số tiền dôi ra ngoài tư bản ứng trước; số tiền đó có tên gọi là lợi nhuận. Phạm trù lợi nhuận che dấu quan hệ bóc lột vì nó làm cho người ta dễ lầm tưởng là con đẻ của tư bản ứng trước (c + v) chứ không phải là con đẻ của tư bản khả biến (v).
Tổng số giá trị thặng dư bóc lột được phân chia thành các loại thu nhập ăn bám trong xã hội tư bản: lợi nhuận công nghiệp, lợi nhuận thương nghiệp, lợi nhuận ngân hàng; nó còn được phân chia nhỏ hơn nữa thành lợi nhuận doanh nghiệp, lợi tức cho vay v.v.. Quá trình phân chia đó tuân thủ theo quy luật cạnh tranh bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận. Giá trị thặng dư còn phải phân chia cho chủ sở hữu ruộng đất dưới hình thức địa tô. Như vậy, tổng số giá trị thặng dư do toàn bộ giai cấp vô sản, công nhân tạo ra trong các ngành sản xuất bị toàn bộ giai cấp tư bản và địa chủ phân chia nhau trong cuộc đấu tranh không khoan nhượng.
Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, đỉnh cao của nó là độc quyền nhà nước là chủ nghĩa đế quốc, đã có nhiều biến đổi trong hình thức và cơ chế bóc lột tư bản chủ nghĩa. Quy luật sản xuất giá trị thặng dư biểu hiện thành quy luật tỷ suất lợi nhuận bình quân trong thời kỳ tự do cạnh tranh thì nay, trong chủ nghĩa tư bản độc quyền, nó biểu hiện thành quy luậttỷ suất lợi nhuận độc quyền cao; quy luật giá trị biểu hiện thành quy luật giá cả sản xuất trong thời kỳ tự do cạnh tranh nay biểu hiện thành quy luật giá cả độc quyền với hệ thống giá bán độc quyền cao, giá mua độc quyền thấp do tư bản độc quyền can thiệp và áp đặt v.v.. Những bộ phận cấu thành lợi nhuận độc quyền cao là: lao động thặng dư, thậm chí một phần lao động cần thiết của công nhân trong xí nghiệp độc quyền; một phần lao động thặng dư của các xí nghiệp nhỏ và vừa do xí nghiệp độc quyền xén bớt thông qua hệ thống giá cả độc quyền; lao động thặng dư, thậm chí một phần lao động cần thiết của nông dân và thợ thủ công cũng bị bóc lột thông qua hệ thống giá cả độc quyền; phần quan trọng là siêu lợi nhuận thuộc địa dựa trên sự bóc lột nặng nề lao động thặng dư và một phần lao động cần thiết của nhân dân lao động ở những nước thuộc địa hay phụ thuộc.
Cùng với sự phát triển của cách mạng khoa học – kỹ thuật và của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, cơ chế bóc lột đã trở nên phức tạp và tinh vi hơn (chủ nghĩa Taylo, chủ nghĩa Fayol, chủ nghĩa Ford, chủ nghĩa Ford mới v.v., lần lượt xuất hiện để biện minh cho tính công bằng, sòng phẳng trong quan hệ giữa tư bản với lao động). Trên thực tế trong chủ nghĩa tư bản hiện đại, ngày càng có nhiều thủ đoạn và hình thức bòn rút lợi nhuận tinh vi để không ít người còn lầm tưởng đến một thứ chủ nghĩa tư bản mới "nhân văn" hơn trước đây, như "chủ nghĩa tư bản nhân dân", "xã hội tham dự"… Điều không thể che dấu được đó là sự hình thành một tầng lớp tư sản ăn bám, quý tộc, thực lợi, tài phiệt; sự thao túng có tính chất toàn cầu của các tập đoàn xuyên quốc gia, tình trạng bất bình đẳng trong các quan hệ thương mại quốc tế; sự xuất hiện của cái gọi là chủ nghĩa thực dân kinh tế; sự áp đặt chính sách giữa Đông và Tây, giữa các nước giàu với các nước nghèo…
2 – Đào sâu sự phân cực xã hội – hệ quả tất yếu của quy luật bóc lột tư bản chủ nghĩa
Sự phân hóa xã hội thành giai cấp không lao động nhưng giàu có, đầy quyền lực, thống trị, áp bức đa số người trong xã hội và giai cấp lao động sản xuất ra của cải xã hội nhưng nghèo khổ, bị tước mọi quyền và bị áp bức là sản phẩm tất yếu của mọi xã hội có chế độ người bóc lột người dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Nhưng sự phân cực xã hội với hình thức biểu hiện kinh tế của nó là sự phân hóa giàu – nghèo trong các xã hội nô lệ và phong kiến, mặc dù các chế độ bóc lột siêu kinh tế này biểu hiện ra là dã man, tàn bạo, nhưng là có hạn độ.
Trong chế độ bóc lột tư bản chủ nghĩa, sự phân cực xã hội là vô cùng sâu sắc, sự phân hóa giàu nghèo được đẩy tới cực độ. Ở đây của cải ngày càng tập trung vào một số nhỏ các cá nhân là những triệu phú và tỉ phú; ở cực đối lập là những người sống dưới mức nghèo khổ ở các nước tư bản phát triển và đông đảo những người cùng khổ, đói rét ở các nước tư bản đang phát triển. Chế độ bóc lột tư bản chủ nghĩa đã sớm chớp lấy những thành tựu mới của khoa học, kỹ thuật và công nghệ để không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội, do đó năng suất lao động thặng dư cũng ngày càng tăng theo; cơ chế bóc lột tư bản chủ nghĩa đã chuyển hướng sang dựa chủ yếu trên sự tăng năng suất lao động. Cũng trên cơ sở kỹ thuật đã phát triển mà cơ chế bóc lột dựa trên tăng cường độ lao động thái quá và kéo dài ngày lao động một cách che dấu cũng phát triển. Của cải xã hội ngày càng được tạo ra nhiều, nhưng lại chỉ tập trung vào một cực. Mặt khác, nội dung vật chất của chế độ bóc lột tư bản chủ nghĩa là giá trị thặng dư mang hình thức giá trị trao đổi (tức là vàng bạc hay tiền tệ); trong quan hệ bóc lột dựa trên hình thức giá trị trao đổi, lòng thèm khát tăng lao động thặng dư và khát vọng làm giàu trên cơ sở đó được đẩy tới cực độ. Sở dĩ như vậy là vì giá trị trao đổi với hình thức biểu hiện vật chất của nó là vàng, tức tiền tệ, về mặt chất lượng có sức mạnh vô hạn (có tiền là có tất cả), về mặt số lượng bao giờ cũng có hạn. Mâu thuẫn giữa chất lượng có sức mạnh vô hạn và số lượng có hạn đó làm tăng lòng thèm khát vơ vét được nhiều tiền. Do tất cả những điều kiện lịch sử và tình hình trên, quy luật bóc lột tư bản chủ nghĩa đã đẩy sâu quá trình phân cực xã hội mà các xã hội bóc lột trước kia không thể sánh kịp.
Đặc điểm của sản xuất tư bản chủ nghĩa còn là tái sản xuất mở rộng nhằm mở rộng bóc lột và ngày càng tích tụ tập trung tư bản để cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động làm cho giá trị cá biệt thấp hơn giá trị xã hội với mục đích thu lợi nhuận cao hơn lợi nhuận trung bình và thắng trong cạnh tranh. Do đó, tư bản tích lũy ngày càng giành đầu tư nhiều hơn vào việc hiện đại hóa guồng máy sản xuất, làm cho kết cấu hữu cơ (c/v) của tư bản thay đổi theo hướng: tư bản bất biến (c) tăng lên cả về giá trị tuyệt đối và tương đối trong khi tư bản khả biến (v) tăng lên tuyệt đối, nhưng giảm tương đối do kỹ thuật hiện đại vừa đắt tiền vừa làm giảm số lượng công nhân vận hành máy móc. Quy luật kết cấu của tư bản thay đổi theo hướng tăng lên như vậy dẫn đến giảm mức cầu về sức lao động trong khi số lượng của giai cấp công nhân tăng lên cùng với sự phát triển của sản xuất tư bản chủ nghĩa. Từ đó dẫn đến nạn nhân khẩu thừa tương đối hay nạn thất nghiệp và hình thành đội quân công nghiệp trù bị.
Tích tụ, tập trung tư bản trong quá trình tích lũy cũng đưa đến kết quả một số ít nhà tư bản tước đoạt của số đông nhà tư bản nhỏ và vừa qua con đường cạnh tranh "cá lớn nuốt cá bé". Nạn nghèo khổ, áp bức, nô dịch, bóc lột càng tăng lên. Vậy là, sự tập trung tư liệu sản xuất và xã hội hóa lao động đạt đến cái điểm mà chúng không còn thích hợp với cái vỏ tư bản chủ nghĩa của chúng nữa…
3 – Ý nghĩa ngày nay của Học thuyết về giá trị thặng dư đối với nước ta
Trong Học thuyết về giá trị thặng dư, C. Mác đã có một nhận định có tính chất dự báo khoa học trong xã hội hiện nay, đó là: "Mục đích thường xuyên của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là làm thế nào để với một tư bản ứng trước tối thiểu, sản xuất ra một giá trị thặng dư hay sản phẩm thặng dư tối đa; và trong chừng mực mà kết quả ấy không phải đạt được bằng lao động quá sức của những người công nhân, thì đó là một khuynh hướng của tư bản, thể hiện ra trong cái nguyện vọng muốn sản xuất ra một sản phẩm nhất định với những chi phí ít nhất về sức lực và tư liệu, tức là một khuynh hướng kinh tế của tư bản dạy cho loài người biết chi phí sức lực của mình một cách tiết kiệm và đạt tới mục đích sản xuất với một chi phí ít nhất về tư liệu" (2).
Từ việc nghiên cứu Học thuyết giá trị thặng dư của C. Mác, chúng ta thấy rõ ít nhất ba vấn đề lớn trong giai đoạn phát triển hiện nay của đất nước.
Một là, trong thời kỳ quá độ nền kinh tế ở nước ta, trong một chừng mực nào đó, quan hệ bóc lột chưa thể bị xóa bỏ ngay, sạch trơn theo cách tiếp cận giáo điều và xơ cứng cũ. Càng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần chúng ta càng thấy rõ, chừng nào quan hệ bóc lột còn có tác dụng giải phóng sức sản xuất và thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, thì chừng đó chúng ta còn phải chấp nhận sự hiện diện của nó.
Hai là, trong thực tế nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, mọi phương án tìm cách định lượng rành mạch, máy móc và xơ cứng về mức độ bóc lột trong việc hoạch định các chủ trương chính sách, cũng như có thái độ phân biệt đối xử với tầng lớp doanh nhân mới đều xa rời thực tế và không thể thực hiện được. Điều có sức thuyết phục hơn cả hiện nay là quan hệ phân phối phải được thể chế hóa bằng luật. Đường lối chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước mỗi khi được thể chế hóa thành luật và các bộ luật thì chẳng những góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, lấy luật làm công cụ và cơ sở để điều chỉnh các hành vi xã hội nói chung, mà còn cả hành vi bóc lột nói riêng. Ai chấp hành đúng pháp luật thì được xã hội thừa nhận và tôn vinh theo phương châm: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong nhận thức, quan điểm chung nên coi đó cũng chính là mức độ bóc lột được xã hội chấp nhận, tức là làm giàu hợp pháp. Trong quản lý xã hội thì phải kiểm soát chặt chẽ thu nhập cá nhân, thu nhập doanh nghiệp để, một mặt, chống thất thu thuế, mặt khác, bảo đảm sự công bằng trong phân phối thông qua Nhà nước và bằng các "kênh" phân phối lại và điều tiết thu nhập xã hội. Thiết nghĩ, đây là một hướng tiếp cận vấn đề bóc lột giúp chúng ta tránh được những nhận thức giáo điều, phi biện chứng về quan hệ bóc lột, cũng như việc vận dụng nó trong một giai đoạn lịch sử cụ thể của việc giải phóng sức sản xuất, tạo động lực phát triển kinh tế và chủ động hội nhập thành công với nền kinh tế quốc tế.
Ba là, mặt khác, cũng phải bảo vệ những quyền chính đáng của cả người lao động lẫn giới chủ sử dụng lao động bằng luật và bằng các chế tài thật cụ thể mới bảo đảm công khai, minh bạch và bền vững. Những mâu thuẫn về lợi ích trong quá trình sử dụng lao động là một thực tế, việc phân xử các mâu thuẫn ấy như thế nào để tránh những xung đột không cần thiết cũng lại là một yêu cầu cấp thiết hiện nay, thể hiện trong bản chất của chế độ mới. Bảo vệ được những quyền lợi chính đáng, những quyền lợi được luật pháp bảo vệ, của tất cả các bên trong quan hệ lao động là một bảo đảm cho việc vận dụng một cách hợp lý quan hệ bóc lột trong điều kiện hiện nay, đồng thời cũng là những đóng góp cơ bản nhất cho cả quá trình hoàn thiện và xây dựng mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
(1) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, t 23, tr 347 (2) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Sđd, t26, phần II, tr 804
SOURCE: TẠP CHÍ CỘNG SẢN SỐ 82 NĂM 2005

[truyền kỳ] bé ste đi học sớm,chuyện bjo mới kể=))

để tránh câu chuyện gây tò mò và tam sao thất bản như những ngày vừa qua,toàn bộ câu truyện truyền kỳ này sẽ dc đăng tải ở đây cho mn tiện bề tra cứu:">
toàn bộ câu chuyện được umma kể lại trong 1 ngày mưa gió bão bùng(hôm nay chứ đâu) trong 1 không gian vô cùng sử thi(gió ù ù và viettel đang khuyến mãi 50% giá trị thẻ nạp).câu chuyện như sau...

vào hồi 12h45p ngày 8-6-1993,tức giờ ngọ tam khắc nhằm ngày 19-4 năm quý dậu,bé ste cất tiếng khóc chào đời tại bệnh viện Bỉm sơn("khóc chuyển cả viện" nguyên văn lời umma:">).Bố mẹ vô cùng sung sướng đặt tên bé là Trần Thị Vân Trang,tự là cay(đã bảo là chuyện bjo mới kể mà:)) đùa chứ đến h cả nhà+vài ng ở xóm trọ vẫn gọi thế,và có vẻ như đến khi mình 80t thì vẫn dc gọi thế.ngoài ra nghe đồn là trong GKS cũ của mình có mục
họ và tên:Trần Thị Vân Trang
tên thường gọi:Cay=))))))))))))))))))))))))))))

tjan thấm thoắt thoi đưa,năm bé ste 4 tuổi thông minh sáng láng,ngày khai giảng,mẹ cho mặc quần áo dắt đi lớp nhà trẻ 4t
vài ngày sau...

*đi học về*
Bé ste:*vểnh môi* con k đi học nữa đâu,toàn bọn con nít ngồi tập xé giấy >"
mẹ: làm sao bỏ học dc.các bạn bằng tuổi con hết mà
Bé ste:con k biết

mẹ mách bố
Bố mẹ *xì xào bàn tán*

sáng ngày hôm sau...
Mẹ: dậy đi học nào con
Bé ste: không
mẹ: dậy đi mẹ xin cho đi học lớp 5 tuổi vs toàn ng lớn,hay lắm blah blah...
bé ste:*tung tăng*

Vậy là bé ste vào học lớp 5 tuổi

*ở nhà*
bố:sao em cho nó đi học sớm.rồi hết năm nay tính sao
mẹ:còn hơn nó k chịu đi học.thôi thì cho nó nghỉ 1 năm rồi hãy vào lớp 1 vậy
bố:ờ



đáng lẽ chuyện đã là như thế nếu như k có 1 chuyện tày đình xảy ra..



một ngày đẹp giời nọ,mẹ đón bé ở lớp mẫu giáo 5t rồi rủ rê
mẹ:cay ơi mẹ con mình đi đón chị đi (chị đang học lớp 4)
bé ste: *được đi chơi đương nhiên là sung sướng*
theo lẽ thường thì trình tự trên trục đường trần phú là (nhà)->(trường mẫu giáo)->(trường tiểu học)->(ngã tư bỉm sơn)
và thế là sau 1 cuộc dạo chơi bách bộ,mẹ và bé đón dc chị vân ở trường tiểu học^^

Mẹ:*thả tay bé ste* nào con dẫn đường về nhà mình nào
vâng,và thay vì quay ngược lại để về nhà thì thật đáng xấu hổ,bé ste thông minh sáng láng lại xăm xăm đâm thẳng tiếp theo hướng lên ngã tư bỉm sơn,lại còn khăng khăng đây mới là hướng về nhà (_ __")
mẹ+c vân *banh họng,mắt nổ mắt xịt*
(vâng,và càng đáng xấu hổ hơn,giang sơn dễ đổi bản tính khó dời,gần 15 năm cuộc đời đã trôi qua kể từ ngày đó nhưng đến h bé ste vẫn k biết bao nhiêu lần lạc đường vì tội đâm ngược hướng,chưa kể nó còn tiếp tục trầm trọng hóa trở thành mù đường,mù hướng)


quay lại chuyện ngày hôm đó...
đến tối..
bố mẹ:*xì xào bàn tán*
mẹ:chắc em phải cho nó vào lớp 1 sớm đển con vân dắt nó đi học 1 năm,chứ thế này em chết mất
bố:ờ


thế là năm sau,bé ste xúng xính vào lớp 1 vì cái tội mù đường


đến năm lớp 3,mẹ nghe dụ dỗ của mấy cô bạn cũng có con đi học sớm,nên lại về dụ dỗ bé ste

mẹ:con ơi hay là nghỉ ở nhà chơi hẳn 1 năm xong rồi năm sau đi học cho đúng tuổi
bé ste:*giãy đành đạch* không,đang học sao phải nghỉ.con có học dốt đâu mà phải đúp
mẹ:*thở dài*
(xin nói thêm 1 chút là năm ngoái mình đi thi đh,cty chia tiền thưởng liền 2 phát,1 đợt các cháu  đi thi,1 đợt các cháu nhập học.trong khi năm nay khóa 93 đi thi chả dc xu nào=)) và thế là nhờ bé ste sớm bản lĩnh trc cám dỗ cuộc đời mà mẹ bé bjo có thể sung sướng cười mà bảo vs mấy cô bạn trót bắt con đúp lại năm đó:"ai mượn lại đi kiềm chế cái sự sung sướng của nó làm gì"=))))


thời gian ngồi ô tô mà trôi qua....
bé ste sắp lên cấp 2...
năm đó...
thiên hạ *xì xào,đồn thổi* nghe nói từ năm nay k cho đi học sớm tuổi đâu,ktra lại giấy tờ sớm là bị đuổi xuống
bé ste:*khóc nức nở*
mẹ:*bịt tai* dc rồi để mẹ tính

và thế là mẹ đi tính dg làm mới lại giấy tờ(GKS và hộ khẩu) coi như năm đó mình mới cso GKS,nàh mình mới có hộ khẩu.có nghĩa là bé ste đã đi học cấp 1 mà k có GKS,cũng như nhà mình sống chục năm trên mảnh đất đó mà k có hộ khẩu=)))))))))))))
làm xong giấy tờ chán chế,hóa ra mọi chuyện...vẫn thế,tin đồn chỉ là tin đồn (_ __")
nhưng thôi,tự an ủi dc cái GKS mới k có mục "tên thường gọi"=))))))))))))))



à nói thêm 1 tý,nhờ đi học sớm mà đời mình thi cử cũng may mắn chả bao h đụng cái môn mình ngu nhất+ghét nhất là môn Lý=)) trời thương bé đây mà:D


và chuyện là như thế.còn mớ giấy tờ cũ h k biết nơi đâu.k biết còn trogn xó tủ k hay là đi làm nhiệm vụ cuối cùng rồi=)))))

bẫy tăng trưởng

Chúng ta đều biết đến bẫy tăng trưởng(hay bẫy tăng trưởng chậm,bẫy thu nhập trung bình,BTT) 

Thứ nhất BTT có thể tạm hiểu đó là hiện tượng 1 nước thuộc nhóm thu nhập thấp có những bước tăng trưởng nhanh chóng về mặt kinh tế(tác giả không dùng từ phát triển),gia nhập nhóm các nước có thu nhập trung bình trong 1 thời gian ngắn,tuy nhiên sau đó tốc độ tăng trưởng kinh tế khựng lại và có xu hướng giảm sút(về số liệu tương đối),1 thời gian dài sau đó không thể tiếp tục “phong độ” để gia nhập nhóm nước có thu nhập cao.

Về vấn đề này,có thể nói nguyên nhân chính nằm ở sự khác biệt giữa tăng trưởng và phát triển.
Tăng trưởng có thể xem là sự tăng lên tuyệt đối và tương đối về các chỉ số,mà trong đó quan trọng là GDP tăng lên bao nhiêu(tuyệt đối),tốc độ tăng trưởng là bao nhiêu phần trăm(tương đối) so với các năm về trước.như vậy tăng trưởng có thể xem là sự phình to lên về quy mô của nền kinh tế.

Có thể thấy khoảng 1 thập kỷ trở lại đây,các nước đang phát triển có tốc độ tăng trưởng nhanh(có những thời điểm là rất nhanh) trong đó có VN.đạt mức GDP/người trên 1000$ VN đã chính thức tạm biệt nhóm nước thu nhập thấp(nhỏ hơn hoặc bằng 995$) và bước vào nhóm nước thu nhập trung bình.tốc độ tăng trưởng xấp xỉ 7% năm,có thể nói rằng xét trên bình diện tăng trưởng,quy mô nền kinh tế VN đang tăng nhanh chóng.

Tất nhiên sự tăng trưởng về kinh tế 1 cách nhanh chóng(tăng trưởng nóng),gần như bất chấp đã kéo theo những hệ lụy của nó,có thể “chỉ mặt đặt tên” như lạm phát,tham nhũng,bất công xã hội,cơ cấu kém khoa học,môi trường và kể cả những trật tự thế giới…

Xin nói sơ qua những nét cơ bản nhất về 1 hệ lụy đang hiển hiện rất rõ ngay trong cuộc sống của chúng ta những ngày này.thịt ba chỉ giá 14000đ 1 lạng(cách đây nửa năm là 7000-8000đ,lạm phát gần 100%),giá tăng vòn vọt tất cả các mặt hàng xăng,gạo,đường,vàng,dollar….dường như lạm phát chưa bao giờ rõ ràng và (có vẻ) dễ mường tượng đến thế.Nôm na có thể hiểu rằng lạm phát là sự mất giá của đồng tiền(thể hiện ở tỷ giá hối đoái với các loại ngoại tệ,sự tăng giá của các mặt hàng…).tuy nhiên thực tế lạm phát phức tạp hơn thế rất nhiều,và tất nhiên là hệ lụy kinh khủng nhất,mà ở mức độ k kiểm soát nổi,nó có thể làm phá sản 1 nền kinh tế(vd như zimbabwe)

Lạm phát là sự mất giá của đồng tiền,giảm sức mua của đồng tiền hay sự mất giá trị thị trường(như trên).hay cũng có thể hiểu theo những khái niệm khác(chủ yếu dựa vào lạm phát xảy ra khi nào hay những biểu hiện của nó)vd như lạm phát là khi lượng tiền lưu hành trong dân tăng lên(nhà nước in thêm tiền),hay khi tổng sản phẩm quốc dân không theo kịp tổng cầu của các thành phần kinh tế....dù hiểu theo cách này hay cách khác thì lạm phát chính là sự thâm hụt về chất đã đánh đổi khi tăng trưởng về lượng.tăng trưởng 7%,lãi ngân hàng là 17% năm(lượng tiền lớn lên từ A lên A’ với A’=A+delta A) nhưng lạm phát đến mấy chục phần trăm(với A’ người tiêu dùng mua dc ít hàng hóa hơn A,tiền tệ chỉ có giá trị tại thời điểm xét đến nó).có nghĩa là GDP/người tính theo sức mua tương đương (PPP) đã giảm xuống,nghĩa là chất lượng cuộc sống thụt lùi đi.hay đơn giản như xét đến chỉ số icor(phản ánh chất lượng đầu tư,icor càng cao càng thể hiền nền kinh tế trì trệ),nhìn qua biểu đồ cũng thấy icor của VN không chỉ tang qua các giai đoạn mà còn tăng lên khi GDP tăng.nếu giai đoạn 1991-1995 thì 1đ lãi cần 3.5 đ vốn thfi đến 2009,phải đầu tư 8đ vốn mới dc 1 đồng lãi(cái này dường như k mấy liên quan đến lạm phát,nhưng tính kỹ lại thì lạm phát cũng gắn chặt vs quan hệ cung cầu,vd này về icor chỉ xa xôi 1 chút khi nói về yếu tố ảnh hưởng đến cung cầu hàng hóa là yếu tố vốn và đầu tư vốn mà thôi)

nói như vậy để hiểu rằng nền kinh tế tăng trưởng chưa hẳn đã là nền kinh tế phát triển.1 nền kinh tế chỉ phát triển bền vững khi cân đối được giữa tăng trưởng và các vấn đề như lạm phát,an sinh xh,công bằng xã hội,bảo vệ môi trường và bảo tồn các giá trị truyền thống. nếu tăng trưởng là bề rộng thì phát triển là bề sâu,nếu tăng trưởng là về số lượng thì phát triển là về chất lượng.phát triển(và phát triển bền vững) mới là mục tiêu quan trọng nhât của 1 nền kinh tế.và để
đạt được điều này đương nhiên cần sự điều tiết sao cho khéo léo và phù hợp.

sự tăng trưởng vòn vọt bất chấp hệ luy(tăng trưởng nóng-có thể hiểu cơ bản là sự tăng trưởng rất nhanh chủ yếu dựa vào sự tăng lên theo bề rộng của các nguồn lực) có thể ví như bánh xe lăn xuống dốc.ban đầu có vẻ như sẽ đem lại 1 kết quả rất mỹ mãn.giống như guồng quay của chiếc bánh xe,rất nhanh.nó k ngừng phình to ra,vào trớn và rất khó ngừng lại.nó yêu cầu nguồn lực phải tăng lên không ngừng nghỉ như bánh xe theo quán tính và gia tốc muốn tiếp tục lăn phải yêu cầu con dốc dài mãi.nếu có 1 bức tường,bánh xe đâm phải và vỡ tan,lăn càng nhanh vỡ càng nhiểu mảnh.cũng như vậy,chỉ cần 1 khủng hoảng về nguồn lực-điều đương nhiên theo quy luật khan hiếm,nền kinh tế tăng trưởng nóng sẽ lao đầu vào tường(xin nhắc lại khái niệm lạm phát là khi tổng sản phẩm quốc dân không theo kịp tổng cầu của các thành phần kinh tế để thấy mối liên quan,lúc này là khi các hệ lụy tiếm ẩn từ trc trong nền kinh tế phát sinh và “làm mình làm mẩy”)

như vậy,phát triển nóng là cực kỳ nguy hiểm(nếu không muốn nói là tất yếu sẽ phát sinh các vấn đề,điển hình như Trung Quốc (có thể tham khảo tại đây http://www.taichinhthegioi.net/thong-tin/chi-tiet/12558/Kinh-te-Trung-Quoc-sap-bay/ )) như vậy nhiều người sẽ đặt câu hỏi :tại sao không ngăn ngừa,kiềm chế lạm phát ngay từ đầu,từ khi bước vào công cuộc tăng trưởng nhảy vọt? xin nhắc rằng lạm phát là hệ luỵ đi kèm của tăng trưởng kinh tế,có tăng trưởng(nhanh và mạnh) thì mới có lạm phát.hơn nữa lạm phát chỉ thể hiện cái nhức nhối của nó khi nền kinh tế bước sâu vào kỳ tăng trưởng nhảy vọt.ngoài ra bản thân tác giả cho rằng,những nỗ lực kiềm chế lạm phát dù ở tầm nào(vi mô hay vĩ mô,cấp nhà nước hay các chủ chủ thế kinh tế) chỉ có hiệu quả khi có 1 nền tảng nhất định về kinh tế.còn hiệu quả đến đâu thì phụ thuộc vào nhiều yếu tố như những thế mạnh hay vấn đề nội tại của bản thân nền kinh tế đó,chính sách của nhà nước,bức tranh toàn cảnh nền kinh tế thế giới…

cân bằng giữa tăng trưởng và kiềm chế lạm phát(nói riêng,kiềm chế các hệ lụy nói chung) là tất yếu các nền kinh tế cần làm và phải làm.điều này tuân theo 1 quá trình mà thông thường là
(điều tiết) 
tăng trưởng ----> lạm phát(và hệ lụy khác)------------------>phát triển

nhìn vào ví dụ của những nước châu á đã vượt qua BTT(Đài Loan,Hàn Quốc…) và các nước vẫn đang loay hoay trong bẫy (Indonesia,Thái Lan,Phillipin…)có thể nhận thấy rõ rang chìa khóa cho lố ra khỏi BTT nằm ngay trong khâu “điều tiết” và sự lựa chọn thời điểm tối ưu hóa cho những bước tiến trình chuyển dịch kinh tế.

[ste]